Có  nhiều cách tiếp cận về kế toán, vì vậy có rất nhiều định nghĩa khác  nhau về kế toán. Tuy nhiên, những định nghĩa này đều thống nhất với nhau  ở chỗ: kế toán là một hệ thống của những khái niệm và phương pháp,  hướng dẫn chúng ta thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt những thông  tin cần thiết cho việc ra những quyết định tài chính hợp lý. Sau đây là  một số định nghĩa đã được đưa ra:   
+ CÁC ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN CỦA VIỆT NAM   
ĐỊNH NGHĨA 1: Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bản chất  của kế toán được nhận định “Kế toán xã hội chủ nghĩa là công việc tính  toán, ghi chép, phản ánh bằng con số một cách liên tục, toàn diện và hệ  thống các loại vật tư, tiền vốn và mọi hoạt động kinh tế, qua đó mà giám  đốc tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước; tình hình bảo vệ tài sản xã  hội chủ nghĩa.” 
ĐỊNH NGHĨA 2: Điều lệ tổ chức kế toán nhà nước đã ghi rõ: “Kế  toán là công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá  trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để  phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản, quá trình và  kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và kinh phí của nhà  nước cũng như của từng tổ chức xí nghiệp.”
ĐỊNH NGHĨA 3: Theo TS. Trần Anh Hoa, trong luận án tiến sĩ của  mình đã đưa ra định nghĩa như sau: “Kế toán là một khoa học liên quan  đến việc thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt các thông tin tài chính  và phi tài chính hữu ích của một tổ chức đến các đối tượng sử dụng để  trên cơ sở đó đề ra các quyết định hợp lý.”
ĐỊNH NGHĨA 4: Theo website www.vcci.com.vn thì “Kế toán là  nghệ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ tài sản và  sự vận động của tài sản (hay là toàn bộ thông tin về tài sản và các hoạt  động kinh tế tài chính) trong doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông  tin hữu ích cho việc ra các quyết định về kinh tế - xã hội và đánh giá  hiệu quả của các hoạt động trong doanh nghiệp.”
ĐỊNH NGHĨA 5: Theo Website www.kiemtoan.com.vn thì “Kế toán  được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp  thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản  xuất kinh doanh của doanh nghiệp.”
ĐỊNH NGHĨA 6: Theo Luật kế toán Việt Nam 2003 “Kế toán là việc  thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài  chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.”
+ CÁC ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
ĐỊNH NGHĨA 7: Khái niệm hướng đến phương pháp, đây là loại  khái niệm mà Luca Pacioli (1447-1517) – nhà toán học vĩ đại người Ý có  nhiều đóng góp cho ngành kế toán thế giới, đã đưa ra cuốn “Chú giải về  tài khoản và các bút toán” mà theo đó, “có 3 điều kiện cần thiết cho bất  cứ ai muốn kinh doanh: thứ nhất, là phải có tiền; thứ hai, người chủ  doanh nghiệp phải có khả năng tính toán nhanh và đồng thời biết lập sổ  sách kế toán; và điều kiện sau cùng là phải có khả năng tổ chức công  việc một cách khoa học, linh động nhằm đảm bảo tiến độ hoạt động kinh  doanh.”
ĐỊNH NGHĨA 8: Khái niệm hướng đến nội dung, cốt lõi vấn đề,  đại diện tiêu biểu của trường phái này là nhà kinh tế học nổi tiếng của  Pháp J.Furaste, ông cho rằng “hệ thống kế toán là một lĩnh vực khoa học  hiện đại với mục đích tính toán giá trị tài sản của doanh nghiệp, đồng  thới xác định giá trị của vốn đầu tư”. Khái niệm này chỉ ra hình thức  tồn tại của quy trình kế toán mà chưa nêu ra được lý do của việc tính  toán giá trị tài sản cũng như việc xác định vốn đầu tư của doanh nghiệp.
ĐỊNH NGHĨA 9: Khái niệm nghiêng về mục đích, kết quả, cuối thế  kỷ 19, nhiều kế toán viên nhận ra một thực tế rằng, người ta cần hệ  thống sổ sách giấy tờ kế toán không phải chỉ để đánh giá giá trị tài sản  doanh nghiệp hay giá trị vốn đầu tư mà nhằm mục đích quản lý. Chính vì  vậy mà E. Pizani – một kế toán viên người Ý đã đưa ra một định nghĩa về  kế toán như sau: “Kế toán là khoa học sử dụng các phép tính toán, dựa  trên các quy định của pháp luật và kinh tế nhằm mục đích quản lý đồng  thời để đạt được những hiệu quả kinh tế khả quan nhất”
ĐỊNH NGHĨA 10: Theo Sokolov, một chuyên gia hàng đầu về kế  toán tại Nga thì “kế toán là ngôn ngữ của các ký hiệu cũng như quy ước  sử dụng và được tạo ra với mục đích làm thay thế các đối tượng thực tế  bằng các ký hiệu hay biểu tượng, cho phép phản ánh một cách trung thực  hoạt động kinh doanh cùng các kết quả của hoạt động kinh doanh đó”
Sokolov  cũng đưa ra hai khái niệm về kế toán. Xét về khía cạnh lý thuyết, “kế  toán chính là khoa học về bản chất cũng như cấu trúc các sự kiện diễn ra  trong cuộc sống, trong hoạt động kinh doanh của con người. Nhiệm vụ của  kế toán là phản ánh nội dung của các quá trình hoạt động kinh doanh  cũng như mối liên hệ giữa các phạm trù luật pháp và phạm trù kinh tế  trong quá trình hoạt động kinh doanh đó.” 
Còn  nếu xét từ khía cạnh thực tế, “kế toán là một quá trình theo dõi, phân  loại, tổng hợp, phân tích và chuyển tải thông tin về các sự kiện xảy ra  trong hoạt động kinh doanh của con người. Nhiệm vụ của kế toán xét từ  khía cạnh này là việc đưa ra các nguồn thông tin phục vụ cho mục đích  quản lý.”
ĐỊNH NGHĨA 11: Một định nghĩa về kế toán được chấp nhận trong  suốt thời gian qua là định nghĩa được trình bày trong “Báo cáo về lý  thuyết kế toán căn bản” ban hành bởi Hiệp hội Kế toán Hoa Kỳ: “Kế toán  là một tiến trình ghi nhận, đo lường, và cung cấp các thông tin kinh tế  nhằm hỗ trợ cho các đánh giá và các quyết định của người sử dụng thông  tin”
ĐỊNH NGHĨA 12: Uy ban nguyên tắc kế toán của Mỹ (APB), trong  thông báo số 4, đã định nghĩa. “Kế toán là một dịch vụ. Chức năng của nó  là cung cấp thông tin định lượng được của các tổ chức kinh tế, chủ yếu  là thông tin tài chính giúp người sử dụng đề ra các quyết định kinh tế.”
ĐỊNH NGHĨA 13: Uy ban thuật ngữ của học viện kế toán viên công  chứng của Mỹ (AICPA) đã định nghĩa: “Kế toán là một nghệ thuật dùng để  ghi chép, phân loại và tổng hợp theo một phương pháp riêng có dưới hình  thức tiền tệ về các nghiệp vụ, các sự kiện kinh tế và trình bày kết quả  của nó cho người sử dụng ra quyết định.”
ĐỊNH NGHĨA 14: Giáo sư, Tiến sĩ Robert Anthony – một nhà  nghiên cứu lý luận kinh tế nội tiếng của trường Đại học Harvard của Mỹ  cho rằng “Kế toán là ngôn ngữ kinh doanh”
ĐỊNH NGHĨA 15: Giáo sư, tiến sĩ Grene Allen Gohlke của Viện  Đại Học Wisconsin lại định nghĩa: “Kế toán là một khoa học liên quan đến  việc ghi nhận, phân loại, tóm tắt và giải thích các nghiệp vụ tài chính  của một tổ chức, giúp cho Ban giám đốc có thể căn cứ vào đó để ra các  quyết định kinh tế”
ĐỊNH NGHĨA 16: Trong cuốn sách “Nguyên lý kế toán Mỹ”, Ronnald  J. Thacker nêu quan điểm của mình về kế toán xuất phát từ việc cung cấp  thông tin cho công tác quản lý. Theo Ronnald J. Thacker “Kế toán là một  phương pháp cung cấp thông tin cần thiết cho quản lý có hiệu quả và để  đánh giá hoạt động của mọi tổ chức”
ĐỊNH NGHĨA 17: Theo Uy ban thực hành kiểm toán quốc tế  (International Auditing Practices Committee) thì “Một hệ thống kế toán  là hàng loạt các nhiệm vụ ở một doanh nghiệp mà nhờ hệ thống này các  nghiệp vụ được xử lý như một phương tiện duy trì các ghi chép tài chính”
ĐỊNH NGHĨA 18: Khi định nghĩa về kế toán, Liên đoàn kế toán  quốc tế (IFAC) cho rằng: “Kế toán là nghệ thuật ghi chép, phân loại tổng  hợp theo một cách riêng có bằng những khoản tiền các nghiệp vụ và các  sự kiện mà chúng có ít nhất một phần tính chất tài chính và trình bày  kết quả của nó”
Tiến  hành phân tích các định nghĩa kế toán, chúng ta thấy nổi lên các quan  điểm sau:
=> KẾ TOÁN LÀ NGHỆ THUẬT HAY KHOA HỌC
            Có khái niệm cho rằng “Kế toán là nghệ thuật”, có khái niệm cho rằng  “Kế toán là khoa học”, có khái niệm cho rằng kế toán là một hoạt động  “dịch vụ” và ngụ ý kế toán bao hàm những kỹ thuật nhằm để sử dụng cho  một số lĩnh vực nhất định, dịch vụ ở đây cũng hàm ý là “Kế toán là nghệ  thuật”
           Đã có nhiều cuộc tranh luận với những quan điểm khác nhau: “Kế toán là  một nghệ thuật hay một khoa học?”
           Những người cho rằng kế toán là một nghệ thuật, đề nghị các kỹ năng của  kế toán cần thiết cung cấp để trở thành nhà kinh doanh giỏi, phải được  giảng dạy và cách tiếp cận hợp pháp với kế toán phải được đảm bảo.
           Những người ủng hộ kế toán là một khoa học đề nghị thay vì giảng dạy  các mô hình đo lường của kế toán cho các sinh viên, chuyên ngành kế  toán, thì cung cấp cho họ những cái nhìn thấu đáo hơn về quan điểm đối  với kế toán qui ước, thừa nhận con số phát sinh đang cố gắng như thế nào  để thoả mãn mục tiêu phục vụ các như cầu của người sử dụng; và gợi ý  những suy nghĩ về lĩnh vực đó và những động lực thay đổi của kế toán.
          Cho dù có những quan điểm khác nhau, nhưng phần đông các quan điểm cho  rằng kế toán là một khoa học lý luận phù hợp hoàn hảo với quan điểm hiện  nay được Mantz phát biểu: “Kế toán có quan hệ với các doanh nghiệp mà  chắc chắn là những nhóm người trong xã hội, nó quan tâm đến các giao  dịch và những sự kiện kinh tế khác mà có hậu quả về mặt xã hội và ảnh  hưởng đến các mối quan hệ xã hội và có ý nghĩa cho người làm việc trong  các hoạt động có liên quan với xã hội, tóm lại kế toán là một khoa học  xã hội.”
=> PHẠM VI CÔNG VIỆC KẾ TOÁN
            Các định nghĩa trước đây về kế toán thường chú trọng đến các nhiệm vụ  giữ sổ sách cố hữu của kế toán đó là ghi chép, phân loại và tổng hợp  các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Tuy nhiên ngày nay, định nghĩa hiện đại  về kế toán rộng hơn nhiều, kế toán là một hệ thống thông tin cung cấp  thông tin định lượng. Vì vậy, người kế toán ngày nay không chỉ quan tâm  đến việc giữ sổ sách mà đến toàn bộ các hoạt động bao gồm việc hoạch  định chương trình và giải quyết vấn đề; hướng sự quan tâm của lãnh đạo  đến những điều cần lưu tâm, đánh giá và duyệt xét các hoạt động của doan  nghiệp và kiểm tra sổ sách. Người kế toán ngày nay chú trọng đến những  nhu cầu bức thiết của những người sử dụng thông tin kế toán, dù những  người sử dụng này ở trong hay ngoài đơn vị kinh doanh. 
             Kế toán được định nghĩa như là một hệ thống thông tin dùng để đo lường,  xử lý và truyền đạt những thông tin về tài chính của một đơn vị kinh  tế. Thông tin này giúp người sử dụng có thể đưa ra các quyết định hợp lý  của mình.
            Theo quan điểm này, kế toán được xem như là gạch nối giữa các hoạt động  kinh doanh và những người làm quyết định. Thứ nhất, kế toán đo lường  các hoạt động kinh doanh bằng cách ghi chép. Thứ hai, các thông tin được  ghi chép sẽ được xử lý để trở thành các thông tin hữu ích. Thứ ba,  thông tin này được truyền đạt qua các bảng báo cáo đến những người sử  dụng để ra các quyết định. 
            Người ta nói rằng các dữ kiện về hoạt động kinh doanh là đầu vào của hệ  thống kế toán và những thông tin hữu ích cho người ra quyết định là đầu  ra đã được hệ thống kế toán xử lý và cung cấp.
            Người ta thường nhầm lẫn giữa kế toán và ghi chép kế toán. Việc ghi  chép kế toán là một quá trình hay nói đúng hơn là một công đoạn của kế  toán, là phương tiện để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và giữ  sổ sách. Việc ghi chép lặp đi lặp lại có tính cách máy móc là một phần  nhỏ, đơn giản nhưng quan trọng của kế toán. Trái lại, kế toán thì lại  khác, nó bao gồm việc thiết kế một hệ thống thông tin đáp ứng được nhu  cầu của người sử dụng thông tin về kế toán. Mục tiêu chính của kế toán  là phân tích, giải trình và sử dụng thông tin. 
 MỤC ĐÍCH CỦA KẾ TOÁN:
           Bản chất kế toán và lý luận của nó chịu sự chế định lịch sử, mà tính  chế định lịch sử của kế toán là do hình thái kinh tế xã hội gây nên. Vì  vậy, mục đích của kế toán có sự khác nhau ở các hình thái kinh tế xã hội  khác nhau.
          Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước  làm chủ tất cả các nguồn lực sản xuất và cung cấp tất cả nhu cầu vốn,  các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo phương thức “cấp phát vật tư và  giao nộp sản phẩm” theo kế hoạch cấp trên giao. Mặt khác, các xí nghiệp  lại bị giới hạn về quyền quyết định nên nhu cầu thông tin nội bộ hầu như  không phải là vấn đề thiết yếu. Do vậy, mục đích của kế toán trong cơ  chế kinh tế này là nhằm cung cầp thông tin cho Nhà nước để kiểm tra tình  hình thực hiện kế hoạch. Chức năng của kế toán là phản ánh và giám đốc  tài sản xã hội chủ nghĩa và các hoạt động kinh tế. Vì thế, trong cơ chế  kế hoạch hóa tập trung, bản chất của kế toán được nhận định như trong  định nghĩa 1 và đinh nghĩa 2.
         Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều  bình đẳng trong quá trình kinh doanh, mối quan hệ kinh tế tài chính của  các doanh ghiệp được mở rộng. Mặt khác, với sự phát triển đa dạng của  các nguồn tạo vốn từ bên ngoài đã làm cho đối tượng sử dụng thông tin kế  toán trở nên đa dạng hơn. Mục đích của kế toán không chỉ cung cấp thông  tin chủ yếu cho bản thân doanh nghiệp, cho Nhà nước, mà còn cung cấp  thông tin cho các đối tượng như ngân hàng, các nhà đầu tư tương lai, nhà  cung cấp, khách hàng,… Vì vậy, định nghĩa kế toán nhấn mạnh đến chức  năng cung cấp thông tin – và chức năng này được coi là chức năng cơ bản  nhất của kế toán. Các định nghĩa sau này kể cả Việt nam, cũng như các  nước trên thế giới đều nhấn mạnh đến chức năng cung cấp thông tin của kế  toán. 
         Như vậy, để định nghĩa về kế toán cần phải dựa vào bản chất của kế toán  – mà bản chất này lại tùy thuộc vào hình thái kinh tế xã hội – nơi hoạt  động kế toán diễn ra.
THƯỚC ĐO GIÁ TRỊ:
THƯỚC ĐO GIÁ TRỊ:
Vai trò của kế toán bắt đầu hình thành khi con người chú ý đến hoạt động thương mại. Trong các hình thái xã hội, mọi người thực hành các qui định kinh tế mà khởi đầu bằng trao đổi tài sản theo giá thỏa thuận. Để thỏa thuận giá, cần có một đơn vị đo lường hoặc một vật trao đổi trung gian có tính phổ biến đối với mọi thành viên trong xã hội. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, vật trao đổi trung gian cuối cùng được chấp nhận là đơn vị đo lường bằng tiền tệ. Tiền được dùng để định giá trị của tài sản và là phương tiện thanh toán thuận tiện nhất. Vì được ứng dụng rộng rãi nên việc sử dụng đơn vị tiền tệ để làm cơ sở chung là yếu tố cơ bản trong quá trình phân tích kinh tế, chính trị và xã hội. Do đó, tất cả các ngành khoa học xã hội đều đòi hỏi thông tin định lượng. Đây là lĩnh vực mà kế toán nghiên cứu. Kế toán đáp ứng nhu cầu đồi với thông tin định lượng và nhất là thông tin về tài chính.
Sau khi phân tích và tiếp  cận các quan điểm khác nhau về khái niệm kế toán, chúng ta xác định được  vai trò và bản chất của kế toán:
• VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN
Vai trò của kế toán là tạo ra thông tin về sự kiện kinh tế phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường của nó. Kết quả của kế toán được trình bày tốt nhất bởi mô hình thông tin, và được trình bày trên các báo cáo tài chính, với những ghi chú giải trình của quá trình lập báo cáo tài chính và những thông tin khác của doanh nghiệp đã được kiểm toán, theo nghĩa kiểm toán viên đã phán xét độc lập để chứng nhận sự việc những báo cáo này trình bày trung thực với tình hình và kết quả của doanh nghiệp và phù hợp với nguyên tắc kế toán thừa nhận chung.
Vai trò của kế toán là tạo ra thông tin về sự kiện kinh tế phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp trong môi trường của nó. Kết quả của kế toán được trình bày tốt nhất bởi mô hình thông tin, và được trình bày trên các báo cáo tài chính, với những ghi chú giải trình của quá trình lập báo cáo tài chính và những thông tin khác của doanh nghiệp đã được kiểm toán, theo nghĩa kiểm toán viên đã phán xét độc lập để chứng nhận sự việc những báo cáo này trình bày trung thực với tình hình và kết quả của doanh nghiệp và phù hợp với nguyên tắc kế toán thừa nhận chung.
Các thông tin của kế toán  được tao ra nhằm giúp cho những người có nhu cầu sử dụng thông tin khác  nhau.
a> Các nhà quản trị  doanh nghiệp
Bao gồm các cấp độ quản trị khác nhau trong doanh nghiệp là những người trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh. Họ sử dụng thông tin về kế toán để xác định mục tiêu kinh doanh, đề ra các quyết định để thực hiện, đánh giá thực hiện mục tiêu và điều chỉnh, nếu thấy cần thiết, để hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao hơn.
Bao gồm các cấp độ quản trị khác nhau trong doanh nghiệp là những người trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh. Họ sử dụng thông tin về kế toán để xác định mục tiêu kinh doanh, đề ra các quyết định để thực hiện, đánh giá thực hiện mục tiêu và điều chỉnh, nếu thấy cần thiết, để hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao hơn.
Vai trò của kế toán trong  việc cung cấp thông tin cho các nhà quản trị là nhằm liên kết các quá  trình quản lý với nhau và liên kết doanh nghiệp với môi trường bên  ngoài.
b> Chủ sỡ hữu
Là những người có quyền sở hữu với vốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (như cổ đông, người góp vốn liên doanh, Nhà nước trong các doanh nhgiệp quốc doanh và công ty cổ phần…), họ quan tâm đến lợi tức sinh ra từ vốn kinh doanh, vì đây là căn cứ để họ đưa ra các quyết định cần thiết, bao gồm cả quyết định phân chia lợi túc cho họ. Đồng thời, qua việc xem xét thông tin trên báo cáo kế toán họ có thể đánh giá năng lực trách nhiệm của các bộ phận quản lý ở doanh nghiệp là tốt hay xấu.
Là những người có quyền sở hữu với vốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (như cổ đông, người góp vốn liên doanh, Nhà nước trong các doanh nhgiệp quốc doanh và công ty cổ phần…), họ quan tâm đến lợi tức sinh ra từ vốn kinh doanh, vì đây là căn cứ để họ đưa ra các quyết định cần thiết, bao gồm cả quyết định phân chia lợi túc cho họ. Đồng thời, qua việc xem xét thông tin trên báo cáo kế toán họ có thể đánh giá năng lực trách nhiệm của các bộ phận quản lý ở doanh nghiệp là tốt hay xấu.
c> Các nhà cho vay và  cung cấp hàng hóa dịch vụ
Các ngân hàng, các tổ chức tài chính cũng như các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, trước khi cho vay hoặc cung cấp đều có nhu cầu thông tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào. Nghĩa là, doanh nghiệp đã có đủ khả năng chi trả hay không? Để có được thông tin này họ phải sử dụng thông tin của kê toán
Các ngân hàng, các tổ chức tài chính cũng như các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, trước khi cho vay hoặc cung cấp đều có nhu cầu thông tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào. Nghĩa là, doanh nghiệp đã có đủ khả năng chi trả hay không? Để có được thông tin này họ phải sử dụng thông tin của kê toán
d> Các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư là người cung cấp vốn cho tổ chức hoạt động kinh doanh với hy vọng thu được lợi tức trên vốn đầu tư. Ho luôn luôn muốn đầu tư vào nơi nào có tỷ lệ hoàn vốn cao nhất và thời gian ngắn nhất. Do vậy, trước khi đầu tư, họ cần thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp để qua đó nghiên cứu, phân tích, đánh giá rồi đi đến quyết định
Các nhà đầu tư là người cung cấp vốn cho tổ chức hoạt động kinh doanh với hy vọng thu được lợi tức trên vốn đầu tư. Ho luôn luôn muốn đầu tư vào nơi nào có tỷ lệ hoàn vốn cao nhất và thời gian ngắn nhất. Do vậy, trước khi đầu tư, họ cần thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp để qua đó nghiên cứu, phân tích, đánh giá rồi đi đến quyết định
e> Các cơ quan thuế
Các cơ quan thuế địa phương va trung ương dựa vào tài liệu của kế toán để tính thuế, đặc biệt là thuế thu nhập. Các cơ quan thuế thường lấy số liệu lợi tức được thể hiện trên báo cáo kế toán trừ đi các khoản miễn giảm thuế theo luật định để xác định lợi tức chịu thuế.
Các cơ quan thuế địa phương va trung ương dựa vào tài liệu của kế toán để tính thuế, đặc biệt là thuế thu nhập. Các cơ quan thuế thường lấy số liệu lợi tức được thể hiện trên báo cáo kế toán trừ đi các khoản miễn giảm thuế theo luật định để xác định lợi tức chịu thuế.
f> Các cơ quan Nhà  nước
Các cơ quan Nhà nước cần số liệu kế toán của doanh nghiệp, để tổng hợp cho ngành, địa phương và trên cơ sở đó phân tích đánh giá nhằm định ra các chính sách kinh tế thích hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô.
Các cơ quan Nhà nước cần số liệu kế toán của doanh nghiệp, để tổng hợp cho ngành, địa phương và trên cơ sở đó phân tích đánh giá nhằm định ra các chính sách kinh tế thích hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô.
•BẢN CHẤT CỦA KẾ TOÁN
a> Kế toán là một ngôn  ngữ
Kế toán được nhận thức là một ngôn ngữ kinh doanh. Đó là một phương tiện truyền đạt thông tin về một doanh nghiệp.
Kế toán được nhận thức là một ngôn ngữ kinh doanh. Đó là một phương tiện truyền đạt thông tin về một doanh nghiệp.
Nhận thức kế toán là một  ngôn ngữ kinh doanh, vì kế toán có rất nhiều thứ phù hợp với ngôn ngữ.  Các hoạt động kinh doanh khác nhau của một doanh nghiệp được báo cáo  trên các baó cáo kế toán bằng ngôn ngữ kế toán, cũng giống như tin tức  được đọc báo cáo trên các tờ báo chí và các phương tiện truyền tin khác
Tính có thể so sánh được  của báo cáo cần thiết, cho việc thực thi hữu hiệu loại ngôn ngữ đó dù nó  bằng thứ tiếng việt hay kế toán. Đồng thời, ngôn ngữ phải linh hoạt để  thích ứng với môi trường đang biến động.
Nhận thức kế toán là một  ngôn ngữ đã được hội nghế nghiệp về kế toán của nhiều nước thừa nhận.  Bởi vì giữa ngôn ngữ và kế toán có nhiều điểm tương đồng tiềm ẩn. Ngôn  ngữ của kế toán được chuyển thể từ ngôn ngữ chung, thành những ký hiệu  của kế toán, sắp xếp theo một hệ thống có căn cứ và mô phỏng theo một  nguyên tắc nhất định. Sự sắp xếp này của các ký hiệu được gọi là ngôn  ngữ, và các nguyên tắc tác động đến kiểu mẫu và công dụng các ký hiệu đó  hình thành văn phạm của ngôn ngữ đó.
Cấu trúc văn phạm của ngôn  ngữ kế toán gồm 2 yếu tố:
- Các ký hiệu hay đặc điểm  từ vựng của một ngôn ngữ là các đơn vị “có ý nghĩa” hay các từ có thể  nhận diện ở mọi ngôn ngữ, được dùng nhận diện các khái niệm cá biệt và  trình bày bằng ký hiệu mà kế toán sử dụng.
- Các nguyên tắc văn phạm  của một ngôn ngữ, ở đây ám chỉ, những cách sắp xếp về cú pháp của mọi  ngôn ngữ. Trong kế toán, các nguyên tắc văn phạm, nhằm chỉ các, thủ tục,  phải tuân thủ khi xây dựng xây tất cả các số liệu về tài chính của  doanh nghiệp.
- Với sự hiện diện của các  yếu tố cấu thành này các ký hiệu và các nguyên tắc kế toán, kế toán có  thể được định nghĩa là một ngôn ngữ.
b> Kế toán là một hệ  thống thông tin
Kế toán luôn luôn được xem là một hệ thống thông tin. Nó được cho là quá trình kết nối một nguồn thông tin, một kênh thông tin (thường do kế toán viên thực hiện) với tập hợp những nguồn nhận thông tin (những người sử dụng). Theo quan điểm kế toán là một hệ thống thông tin, kế toán có thể hiểu là: “Quá trình mã hóa các quan sát theo ngôn ngữ của kế toán, thành các ký hiệu qua các báo cáo của hệ thống đó và giải mã chúng để truyền đạt các kết quả đó”
Kế toán luôn luôn được xem là một hệ thống thông tin. Nó được cho là quá trình kết nối một nguồn thông tin, một kênh thông tin (thường do kế toán viên thực hiện) với tập hợp những nguồn nhận thông tin (những người sử dụng). Theo quan điểm kế toán là một hệ thống thông tin, kế toán có thể hiểu là: “Quá trình mã hóa các quan sát theo ngôn ngữ của kế toán, thành các ký hiệu qua các báo cáo của hệ thống đó và giải mã chúng để truyền đạt các kết quả đó”
Quan điểm này nhấn mạnh  đến việc nhận thức và truyền đạt thông tin kế toán. Trước hết, giả  thuyết kế toán là một hệ thống đo lường chính thức duy nhất trong một tổ  chức. Sau đó, nó nâng cáo khả năng thiết thiết kế một hệ thống kế toán  tùy ý, đủ khả năng để cung cấp các thông tin hữu ích cho nguồn cần sử  dụng thông tin.
c> Kế toán là một hồ  sơ lịch sử
Nhìn chung, kế toán được xem là phương tiện cung cấp thông tin lịch sử của một tổ chức và các giao dịch của nó với các môi trường xung quanh nó. Đối với người chủ sở hữu hay đối với các cổ đông của một doanh nghiệp, các hồ sơ kế toán cung cấp lịch sử về trách nhiệm quản lý các nguồn lực của chũ sỡ hữu. Kế toán là hệ thống thông tin hoạt động qua 3 giai đoạn:
Nhìn chung, kế toán được xem là phương tiện cung cấp thông tin lịch sử của một tổ chức và các giao dịch của nó với các môi trường xung quanh nó. Đối với người chủ sở hữu hay đối với các cổ đông của một doanh nghiệp, các hồ sơ kế toán cung cấp lịch sử về trách nhiệm quản lý các nguồn lực của chũ sỡ hữu. Kế toán là hệ thống thông tin hoạt động qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thu thập và  ghi nhận
- Giai đoạn đánh giá kết quả và hiệu quả
- Giai đoạn cung cấp thông tin cho hoạch định.
- Giai đoạn đánh giá kết quả và hiệu quả
- Giai đoạn cung cấp thông tin cho hoạch định.
d> Kế toán là một hàng  hóa
Kế toán cũng được xem là hàng hóa sinh ra từ một hoạt động kinh tế. Bởi vì, kế toán cung cấp những thông tin hữu ích cho các đối tượng cần sử dụng thông tin khác nhau. Người nhận thông tin có thể ra quyết định sáng suốt và hiệu quả hơn, Thay vì nếu không có thông tin, muốn có được các thông tin cần có chi phí bỏ ra, nguời sử dụng thông tin này phải nhận diện được kết quả của thông tin làm thay đổi các quyết định so với chi phí để có được thông tin.
Kế toán cũng được xem là hàng hóa sinh ra từ một hoạt động kinh tế. Bởi vì, kế toán cung cấp những thông tin hữu ích cho các đối tượng cần sử dụng thông tin khác nhau. Người nhận thông tin có thể ra quyết định sáng suốt và hiệu quả hơn, Thay vì nếu không có thông tin, muốn có được các thông tin cần có chi phí bỏ ra, nguời sử dụng thông tin này phải nhận diện được kết quả của thông tin làm thay đổi các quyết định so với chi phí để có được thông tin.
Sự lựa chọn thông tin kế  toán và các kỹ thuật kế toán có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các nhóm  người khác nhau trong xã hội. Kết quả là có một thị trường thông tin kế  toán với cung và cầu xác định có thể không giống nhau. Quan điểm kế toán  là một hàng hóa đang và sẽ tiếp tục có ảnh hưởng sâu sắc đến cách nghĩ  về kế toán và nghiên cứu kế toán.
e> Kế toán phản ánh  thực trạng kinh tế hiện hành
Kế toán cũng được xem xét như là một phương tiện phản ánh thực trạng kinh tế hiện hành theo quan điểm này thì cả bảng CĐKT và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều phải dựa trên cơ sở đánh giá nào, phản ánh nhiều nhất thực trạng kinh tế thay vì chi phí lịch sử.
Kế toán cũng được xem xét như là một phương tiện phản ánh thực trạng kinh tế hiện hành theo quan điểm này thì cả bảng CĐKT và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều phải dựa trên cơ sở đánh giá nào, phản ánh nhiều nhất thực trạng kinh tế thay vì chi phí lịch sử.
Phương pháp được xem là  phản ánh nhất thực trạng kinh tế nhấn mạnh vào giá hiện hành và giá  tương lai hơn là giá lịch sử. Mục tiêu chính của quan điểm này của kế  toán là để xác định thu nhập thực sự, là quan điểm phản ánh sự thay đổi  về của cải của doanh nghiệp theo thời gian. Sử dụng phương pháp nào đó  để đo lường tốt nhất các giá trị tài sản, công nợ và thu nhập liên quan?  Để trả lời câu hỏi này có nhiều phương pháp đánh giá tài sản được đề  nghị đưa ra. Xong cũng không ít quan điểm tranh luận khác nhau về vấn đề  này.
Sau khi phân tích các khái niệm kế toán, xác định rõ vai trò và bản chất của kế toán, theo quan điểm của tôi, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, kế toán có thể được định nghĩa như sau:
“Kế toán là một khoa học  liên quan đến việc thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt các thông tin  tài chính và phi tài chính hữu ích của một tổ chức đến các đối tượng sử  dụng để trên cơ sở đó đế ra các quyết định hợp lý.”

0 nhận xét:
Đăng nhận xét